Welcome to website .::. Trường anh ngữ quốc tế PoPoDoo .::. Liên hệ đăng kí học thử miễn phí: 0983.508.249 .::.

Pages

Thứ Năm, 9 tháng 8, 2012

Trường anh ngữ Popodoo khai giảng khóa học tiếng anh trẻ em 3-6T


Trường anh ngữ Popodoo
 khai giảng khóa học tiếng anh trẻ em 3-6T ưu đãi trừ ngay 2.300.000 đồng khi đăng ký

Trường anh ngữ Popodoo khai giảng khóa học tiếng anh trẻ em 3-6T

Nhân dịp khai giảng năm học mới 2012-2013, trường anh ngữ trẻ em Popodoo thông báo tới các bậc phụ huynh ưu đãi đặc biệt giảm trực tiếp 2.300.000 đồng khi đăng ký khóa học 12 tháng tại anh ngữ quốc tế Popodoo. Đặc biệt, bố mẹ được đăng ký cho bé học thử miễn phí để tham khảo thêm môi trường tại Trung tâm. 
Chi tiết liên hệ Ms Tuyết - 0983 508 249

Thứ Bảy, 4 tháng 8, 2012

LÝ THUYẾT VỀ 8 NĂNG LỰC TƯ DUY


Lâu nay người ta quá sùng bái IQ mà quên mất rằng    đó chỉ là phần nổi của tảng băng trí tuệ, tài năng của trẻ em. Lý thuyết về “đa thông minh” của Giáo Sư Howard Gardner ( Đại học Harvard) đã đặt ra nhiều chiến thuật mới về cách giảng dạy và học tập, người học sinh nhờ đó gặp nhiều cơ hội khám phá ra các khía cạnh khác nhau của trí thông minh, được giúp đỡ để phát triển cả những năng khiếu còn tiềm ẩn.
Tại trường học, các nhà giáo dục thường dùng nhiều bài trắc nghiệm để đo lường và xác định “chỉ số thông minh” (IQ) của học sinh. Không dùng cách đo lường này, làm sao nhà trường có thể xếp các học sinh vào những loại lớp học khác nhau, chẳng hạn như lớp đặc biệt dành cho các em chậm hiểu, lớp thần đồng (gifted) là nơi các em thông minh được học hành theo độ khó cao hơn, làm sao một học sinh được cố vấn sau này nên theo đuổi nền đại học tổng quát hay nên vào một trường chuyên nghiệp.
alt
Khám phá tiềm năng của trẻ

Người học sinh như vậy được phân loại do các bài trắc nghiệm tiêu chuẩn, rồi được chấm điểm bằng máy móc. Cách đo lường này, theo Giáo Sư Howard Gardner, nhà nghiên cứu hàng đầu tại Đại Học Harvard, chỉ có một mục đích mà thôi, đó là tiên đoán sự thành công của em học sinh “tại trường học”. Theo Giáo Sư Howard Gardner và nhóm khảo cứu, các bài trắc nghiệm dùng cho các em học sinh lớp 6 có thể cho ra một hình ảnh về sự thành công của các em này trong vài năm về sau mà không nói lên được các ước vọng của các em học sinh đó trong tương lai. Các bài trắc nghiệm về trí thông minh chỉ giới hạn phạm vi đo lường vào các khả năng lý luận toán học và ngôn ngữ, mà hầu như đã bỏ quên những năng khiếu khác mà người học sinh có thể xuất sắc, chẳng hạn như sự khéo tay trong ngành thủ công, cách xuất sắc về vận động cơ thể trong thể thao, khả năng giao tiếp với các người khác, đầu óc sáng tạo trong âm nhạc và nghệ thuật... Các bài trắc nghiệm thường bỏ qua những yếu tố như sự cố gắng và thúc động (motivation) và đây là vài động lực quan trọng đưa người học sinh tới chỗ thành công ngoài xã hội.


Giáo Sư Howard Gardner cũng cho rằng nhà trường khi dùng các bài trắc nghiệm trí thông minh (IQ tests) đã bỏ quên hay không xét tới các tài năng và khuynh hướng thường không được xếp vào loại “giáo khoa” (academic), đã không khám phá và đo lường vài loại tài năng của người học sinh, chẳng hạn như tài thuyết phục, tài thương lượng (negotiating) trong khi các khả năng này cũng giúp ích nhiều cho xã hội.



Tìm hiểu bản chất của trí thông minh và làm sao đo lường được phạm vi trí tuệ này là một mục tiêu của nhiều nhà giáo dục. Ngày nay tại nhiều trường học, các nhà giáo dục đã thay thế các bài trắc nghiệm cũ (standardized tests) bằng các cách lượng định chính quy (authentic assessments) trong đó dùng tới cách xem xét các bộ sưu tập công trình thực sự (portfolios) để xác định thành quả và tiến bộ của người học sinh. Nhà trường đã nhận ra tầm xa của các loại thông minh (a full range of intelligences) rồi sau đó làm thay đổi các cách thực thi giáo dục nhờ đó người học sinh có thể phát huy toàn diện.



Giáo Sư Howard Gardner và nhóm cộng sự đã đặt ra lý thuyết về “đa thông minh” (the theory of multiple intelligences) theo đó một em học sinh bình thường (ngoại trừ trẻ em bị khuyết tật) đều thông minh tới một mức độ nào đó tại một hay nhiều miền sau đây: lý luận toán học, ngôn ngữ, âm nhạc, không gian, vận động thân thể, thiên nhiên, giao tế giữa cá nhân (interpersonal) và hiểu rõ nội tâm cá nhân (intrapersonal).


alt


8 tiềm năng của trẻ


1) Lý luận Toán Học (Logical-mathematical): thuộc về loại này là các em ưa thích làm việc với các con số, đặt câu hỏi rồi giải đáp, dễ nhận ra các kiểu mẫu xếp theo trình tự (patterns), ưa phân tích và phân loại sự vật, đặt câu hỏi rồi giải đáp, có khả năng lý luận dài dòng và trong cách làm việc theo trừu tượng. Các học sinh giỏi toán và lý luận này, về sau trở nên các nhà toán học, các nhà khoa học... Vài nhân vật đại diện cho loại này là Albert Einstein, John Dewey, Suzanne Langer. . .


2) Ngôn ngữ - khẩu ngữ (Verbal-linguistic): người học sinh thuộc về loại này giỏi về đọc, viết, kể chuyện, nhớ rõ ngày tháng, ưa thích giải các bài ô chữ (puzzles), nhậy cảm với các ý nghĩa của các từ ngữ, biết rõ chức năng khác nhau của ngôn ngữ. Các học sinh này cần được luyện tập về nghe, nói, đọc chữ, thảo luận và viết ra các bài văn. Điển hình loại này Abraham Lincoln, T.S. Eliot, Virginia Woolf, Maya Angelou. . .



3) Không gian (Spatial): loại này gồm các học sinh giỏi vẽ, lập ra họa đồ, có đầu óc dự kiến (visualization), ưa thích mơ mộng và tạo ra các kiểu mẫu, có năng khiếu về không gian và về các biến đổi theo nhận thức đa chiều. Loại học sinh này nên được khuyến khích làm việc với các hình ảnh và màu sắc, dự kiến và dùng con mắt của tâm hồn (mind’s eye). Tương lai của họ là các nhà điêu khắc, kiến trúc sư, nhà hàng hải (navigator). Các thí dụ của loại người này gồm Pablo Picasso, Frank Lloyd Wright, Georgia O’Keeffe, Bobby Fischer. . .



4) Âm Nhạc (Musical): về sau trở thành các nhạc sĩ, nhà soạn nhạc, loại học sinh này có khả năng nhận thức, ghi nhớ, lượng giá và sáng tạo nhịp điệu, âm thanh, tiết điệu, ưa thích đánh đàn, nghe nhạc và ca hát, biết thưởng thức cách diễn tấu... Đại diện cho lớp người này là Wolfgang A. Mozart, Leonard Bernstein, Ella Fitzerald. . .



5) Vận động thân thể (Bodily-kinesthetic): học sinh thuộc loại này sẽ trở nên các nhà thể thao, các vũ công (dancer), họ có khả năng diễn tả qua các động tác cơ thể, ưa nhẩy múa, đóng kịch, xử dụng các dụng cụ (using tools). Vài nhân vật thuộc lớp người này là Charlie Chaplin, Martina Navratilova, Magic Johnson. . .



6) Thiên nhiên (Naturalist): tương lai của lớp học sinh này là các nhà thiên nhiên học, sinh học, bảo trợ môi trường... Loại học sinh này hiểu biết và yêu mến thiên nhiên, biết phân biệt và nhận ra các chủng loại, ưa thích tìm hiểu về cây cỏ, sinh vật, các hiện tượng thiên nhiên... Các danh nhân thuộc loại này gồm Charles Darwin, Luther Burbank, John Muir. . .



7) Tương giao cá nhân (Interpersonal): khi thành công, loại học sinh này trở nên các bác sĩ chữa bệnh tâm lý (therapist), các người bán hàng (salesperson). . . Lớp học sinh này hiểu rõ về bản chất con người, có đầu óc tổ chức, truyền thông và giải quyết các bất đồng, họ cũng ưa thích nhiều bạn bè, tham gia vào các nhóm, cộng tác với nhiều người khác. Đại diện loại người này là Mohandas Gandhi, Mẹ Theresa, Cựu Tổng Thống Ronald Reagan. . .



8) Nội tâm cá nhân (Intrapersonal): học sinh thuộc loại này ưa thích suy tư, làm việc đơn độc, theo đuổi các công trình một cách thầm lặng, hiểu rõ chính mình, nhận ra các ưu khuyết điểm của các hành vi cá nhân và biết đặt ra các mục tiêu thích hợp với nguyện vọng và trí thông minh của từng người. Vài thí dụ về lớp người này là Sigmund Freud, Thomas Merton, bà Eleanor Roosevelt. . .



Lý thuyết về “đa thông minh” của Giáo Sư Howard Gardner đã đặt ra nhiều chiến thuật mới về cách giảng dạy và học tập, người học sinh nhờ đó gặp nhiều cơ hội khám phá ra các tầm cỡ khác nhau về thông minh, được giúp đỡ để phát triển cả những năng khiếu còn tiềm ẩn. Theo Giáo Sư Howard Gardner, trường học nên giúp đỡ học sinh tham gia học hỏi, phát triển nhiều loại thông minh, cộng tác vào nhiều loại sinh hoạt học đường và xã hội, khiến cho học sinh có khả năng nhiều mặt để sau này phục vụ xã hội theo nhiều chiều hướng xây dựng.

(Theo treem.net)

PHƯƠNG PHÁP HỌC TIẾNG ANH CHO TRẺ HIỆU QUẢ?


Hiện nay cái phương pháp dạy tiếng Anh hiệu quả nhất mà hầu hết tất cả các trung tâm Anh ngữ có giáo viên bản ngữ dạy là cái phương pháp gọi là immersion language teaching, hay còn gọi là content-based,

Cách dạy này với 2 nguyên tắc chính:

+ 1. Ném trẻ con vào môi trường ngôn ngữ đó và nó sẽ tự xoay xở;

+ 2. Dạy nội dung qua ngôn ngữ, tức là cái focus không phải ở ngôn ngữ mà là ở nội dung mà ngôn ngữ đó truyền tải.

Học sinh ta ngày xưa học ngoại ngữ trong trường học chắc đều nhớ là bao giờ cũng có mẫu câu, phải thuộc cái mẫu câu đó rồi sau đó thì biết là dùng trong trường hợp nào, đúng không? Chúng ta toàn học theo cách đó, và bây giờ trong các trường người ta vẫn dạy cách đó, nên trẻ con học hết cấp III rồi vẫn chẳng thốt lên được một câu để giao tiếp tiếng Anh với người nước ngoài.

Với cách dạy immersion language teaching, trẻ con sẽ được giới thiệu với topic, học xung quanh topic đó một cách tự nhiên và ngôn ngữ thì tự nó thấm vào một cách tự nhiên. Nôm na nó là như thế, nên chúng nó không phải băn khoăn là à, bây giờ thế này thì phải nói thế nào nhỉ, như người lớn chúng ta học ngoại ngữ vẫn thường phải thế.

Lời khuyên:

Vì vậy, khi chọn chỗ học ngoại ngữ cho con mà các bố mẹ thấy cô giáo dạy kiểu như là: Apple là quả táo, các con nhớ chưa, thì xin bố mẹ hãy tránh ra xa, các con sẽ có một đống từ lộn xộn trong đầu và có thể biểu diễn được cho bố mẹ biết là apple là quả táo, banana là chuối nhưng vô hình chung là khả năng ngôn ngữ của các con đang bị kìm hãm đấy, sẽ giải thích rõ hơn vấn đề này sau.





Các nguyên tắc học ngoại ngữ chính:

1. Học càng sớm càng tốt.

Tiểu học là 1 giai đoạn rất quan trọng để học tiếng Anh. Đó là bởi vì đây được coi là giai đoạn đầu tiên bé tiếp cận với 1 ngôn ngữ mới (thông thường các trường bắt đầu dạy tiếng Anh cho bé từ lớp 3). Với các mẹ cho con đi học tiếng Anh từ những năm 3-4 tuổi thì rất tốt rồi nhưng với các mẹ ko có thời gian và điều kiện cho bé học tiếng Anh từ khi còn học mẫu giáo thì việc các bé học tiểu học mới bắt đầu học tiếng Anh phải thực sự được quan tâm.
Một số ý kiến cứ nói là trẻ con nhỏ biết gì mà học, tiếng Việt còn chưa sõi... Các bố mẹ có biết là hiện tại, ở đâu tôi không nhớ, hôm nọ đọc trên CNN hay gì đó, có trường dạy ngoại ngữ cho trẻ 6 tháng tuổi không, và waiting list thì thôi rồi, cung không đủ cầu. Đơn giản bố mẹ cứ đặt con mình vào địa vị một đứa con lai, nó phát triển 2 ngôn ngữ cùng một lúc và đồng đều như nhau (với một điều kiện, sẽ giải thích sau), vì nó tiếp xúc với hai ngôn ngữ từ khi nó mới sinh ra. Đối với trẻ nhỏ thì Tiếng Việt cũng là ngoại ngữ khi chúng nó còn nhỏ, đúng không? Vì thế học ngoại ngữ càng sớm thì khả năng phát triển ngôn ngữ như tiếng mẹ đẻ lại càng cao. Bên cạnh đó, việc học ngoại ngữ sớm không chỉ giới hạn ở việc nó giỏi cái ngoại ngữ đó, mà còn làm cho trẻ thông minh, phát triển hơn vì đối với trẻ nhỏ, phát triển ngôn ngữ là quan trọng, và ngôn ngữ phát triển làm trẻ nhỏ sẽ khá hơn trong tất cả mọi lĩnh vực khác.

2. Phân biệt rạch ròi hai ngôn ngữ:

Lại nói về con lai, đúng là có những đứa nói hai thứ tiếng rạch ròi, không lẫn lộn, và tốt như nhau, còn có những đứa lại bị loạn ngôn ngữ. Một vấn đề rất đơn giản thôi: Bố mẹ nói lẫn lộn. Nếu bố là người Anh chỉ nói tiếng Anh với con và nếu mẹ người Việt chỉ nói tiếng Việt không thì đứa bé sẽ phát triển được hai ngôn ngữ song song như thế, ngược lại nếu cả bố lẫn mẹ dùng cả hai thứ tiếng lẫn lộn ngay từ khi con còn bé thì hậu quả loạn ngôn ngữ là vô cùng cao, vì khi đó não bộ đứa trẻ không phân biệt được hai ngôn ngữ khác nhau, và nó mất đi khả năng phản xạ cần thiết nhất khi con người cần giao tiếp với nhau: nếu đứa trẻ biết mẹ nó chỉ hiểu tiếng Việt, nó sẽ phải tập nói tiếng Việt để mẹ nó hiểu nó, tương tự với bố...Vì vậy, thực sự nếu không đủ điều kiện để phát triển song song hai ngôn ngữ từ khi còn rất là nhỏ (ví dụ bố mẹ không có khả năng nói tiếng Anh, hay không có khả năng thuê một cô bảo mẫu nói tiếng Anh từ khi con còn rất bé, hay môi trường không cho phép - nếu con bạn là người Việt và bạn đang ở nước ngoài chẳng hạn, thì đó là môi trường lý tưởng để phát triển hai ngôn ngữ song song) hãy đợi con đến 3-4 tuổi và bắt đầu, thì chúng nó sẽ biết được đấy là ngôn ngữ thứ 2 vì tiếng Việt đã khá là phát triển.





3. Học ngôn ngữ như là công cụ giao tiếp và nhận thức cái nội dung cần truyền tải.

Ví dụ khi bạn nói với con apple có nghĩa là quả táo thì bạn đang cho con học ngoại ngữ như là học ngoại ngữ thực sự, nhưng khi bạn cầm quả táo và nói: apple, tưởng đơn giản nhưng mà là khác hoàn toàn: con bạn sẽ link thẳng cái object đấy với cái từ đấy, và khi nó nhìn quả táo nó sẽ bật ra được apple, tạo điều kiện sau này khi cần dùng ngôn ngữ nào thì nó phải NGHĨ bằng ngôn ngữ đó, mà điều này quan trọng vô cùng. Cụ thể: nếu nó cần nói nó muốn quả táo nó sẽ bật ra luôn I want that apple, chứ không phải nó sẽ nghĩ là: mình muốn quả táo đó, phải nói là Tôi muốn quả táo đó, tức là I want that apple và sau đó thì mới nói ra. Lúc chúng tôi sang Nga thì đã học một năm dự bị ở nhà, và các nước khác thì họ không học ở nhà trước như VN, sang đến bên Nga họ chẳng có một tý vốn nào, nhưng mà họ học nhanh hơn và khả năng bật cao hơn rất nhiều, đơn giản như tôi đã giải thích ở trên, họ link thẳng mọi thứ đến ngôn ngữ, không phải qua bất cứ một cái cầu nối nào.

4. Học ngoại ngữ phải kiên trì:

Một số bố mẹ cho con đi học thì rất sốt ruột muốn biết kết quả ngay, phải biết con biết từ này và nói được câu này. Vô hình chung là đầy đọa mình và con mình đấy, vì hầu hết không có super kid, tất cả theo một quỹ đạo rất bình thường: mưa lâu thấm dần, và nó chỉ nói khi nó thấy cần thiết, hay khi nó thích...Mỗi đứa trẻ phát triển rất riêng mà, có đứa mới đi học đã thao thao, có đứa chẳng nói gì. Nhưng bạn yên tâm, nếu vứt nó vào môi trường phải sử dụng tiếng Anh, nó sẽ bật ra. Con tôi sang Úc 3 tháng chẳng thốt lên một từ nào, mẹ cũng kệ, chỉ cho nó xem đĩa tiếng Anh, nói tiếng Anh với nó, giải thích bằng tiếng Anh, hiểu đến đâu thì hiểu, đến lớp thì 1 tuần đầu người ta cho phiên dịch đến, được một tuần mẹ cháu yêu cầu thôi mặc dù chính phủ trả tiền, và nó tự xoay xở. Cho đến một hôm dẫn nó đến nhà bạn chơi thì thấy nó tuôn ra cả tràng, accent đặc Úc. Bất ngờ quá, và từ đó thì nó còn yêu cầu mẹ là không dùng tiếng Việt với nó, hậu quả là khi về nhà phải mất 2 tháng mới nói lại được tiếng Việt. Vì thế, bố mẹ đừng có sốt ruột, lúc nào nó bật ra thì nó sẽ bật ra, còn không, nó vẫn đâu đó trong đầu chúng nó đấy.

5. Học Tiếng Anh phải chuẩn ngay từ đầu:

Accent (giọng đọc ) không quan trọng, người ta có thể nói giọng Úc, giọng Mỹ, giọng Sing... nhưng apple phát âm phải là apple. Thiết nghĩ là bố mẹ đừng quá câu nệ người bản xứ với không bản xứ một cách thái quá. Được bản xứ mà có chứng chỉ là quá tốt rồi nhưng bây giờ Tây ba lô nhiều lắm. Người nước ngoài với một giọng chuẩn là ổn, vì người nước ngoài có 2 lợi thế hơn so với người Việt: trẻ con bắt buộc phải nghe và hiểu họ vì họ không nói và không hiểu được tiếng Việt (khả năng phản xạ đã nói ở trên); và nói gì thì nói, phương pháp dạy của họ luôn tiên tiến hơn, họ cũng giỏi khuấy động phong trào hơn người Việt mình, không ngại nhảy, không ngại hát, không ngại nói và họ vẫn có 1 lợi thế hơn với các giáo viên bản xứ đấy: họ thường có bằng cấp tử tế hơn và có kinh nghiệm của bản thân mình khi sử dụng ngôn ngữ thứ 2!!! Nói thế không phải là người Việt mình tiếng Anh không giỏi, đơn giản là giáo viên Việt Nam có giọng chuẩn thì hầu hết phải tu nghiệp tốt nghiệp ở nước ngoài, mà những người đó về thì

+ Họ không đi dạy tiếng Anh giá thấp, giá của họ cũng phải bằng người nước ngoài, mà image thì lại không bằng người nước ngoài vì không phải mác bản xứ;

+ Họ thường chỉ dạy đại học hay các khóa học cao cấp;

+ Khả năng tạo fun của họ vẫn kém người nước ngoài!!!

Tóm lại: vẫn phải người không phải Việt Nam dạy cho trẻ em là tốt nhất. Giáo viên nươc ngoài dạy cho Trẻ em vẫn hay hơn.

6. Học dưới nhiều hình thức:

Cứ tưởng tượng con bạn ở nước ngoài, nó sẽ giao tiếp với người nước ngoài, nó sẽ xem TV nước ngoài, nghe nhạc nước ngoài...Vậy nên hãy cố tạo cho con bạn một môi trường ngôn ngữ như thế: Xem TV bằng tiếng Anh (đĩa, cable TV), nghe nhạc tiếng Anh, kể cả nhạc người lớn, giao tiếp với người nước ngoài (đi học, đi giao lưu). Mà cũng đừng bắt con chỉ xem mấy cái đĩa học Tiếng Anh, nhanh chán lắm, cho chúng nó xem phim bằng tiếng Anh là ổn nhất. Một công đôi việc đấy: Vì những lí do sau:

+ Khi xem phim, trẻ phải suy nghĩ và đoán khi chúng nó không hiểu, làm giảm tác hại của TV là hạn chế sức suy nghĩ của con người.

+ Học tiếng Anh qua nội dung (content-based) mà lại hấp dẫn. Nếu con bạn không thích xem, hãy khuyến khích chúng nó bằng cách ngồi cạnh và sau đó thì kể thêm về các nhân vật đó, và để cái interest của chúng nó luôn luôn nóng hổi, hãy chọn các phim có nhiều series, kiểu như pooh hay barbie, hay strawberry shortcake, hay totally spices đang chiếu trên disney channel, nhân vật thân thuộc nhưng sự kiện lại luôn luôn mới.

+ Máy tính và internet cũng là một nguồn học tiếng Anh tốt, các trò chơi bằng tiếng Anh cũng tốt vì chúng nó phải nghe và làm theo instructions ở đó, và điều căn bản là chúng nó thích. Vấn đề hạn chế thế nào thì các bố mẹ biết rồi.

7. Điều không nên làm:

Đừng bao giờ hỏi con quả táo bằng tiếng Anh là gì con nhỉ nhé. Điều tối kỵ đấy. Thay vào đấy, cầm quả táo lên và hỏi: What is this?


Hy vọng những thông tin trên bổ ích. Các bố mẹ có nhiều kinh nghiệm hay thì cùng chia sẻ nhé.


GIÁO DỤC TỪ SỚM ĐỂ PHÁT TRIỂN HẾT TÀI NĂNG CỦA TRẺ 


Những suy nghĩ khi đọc cuốn “Em phải đến Harvard học kinh tế”:

Việc giáo dục trẻ nói trong bài viết này không như khái niệm nói trong nhà trường mà theo nghĩa kích thích các giác quan, hướng tới sự hăng say mọi mặt, phát triển tối đa các tiềm năng của con người từ khi lọt lòng, bồi dưỡng nhân cách toàn diện để phát triển nhanh khi trưởng thành.

Ngành tâm lý học sinh vật hiện đại đã chứng minh tiềm năng của đứa trẻ có quy luật giảm dần. Một đứa trẻ sinh ra có 100 phần năng lực, nếu tiến hành giáo dục một cách lý tưởng đối với nó từ khi lọt lòng thì sẽ phát huy hết năng lực vốn có. Nếu bắt đầu từ 5 tuổi, giả sử cũng giáo dục một cách lý tưởng như trên thì cũng chỉ có được 80 phần năng lực. Nếu đến 10 tuổi mới bắt đầu giáo dục đúng cách thì chỉ còn lại 60 phần.
Các nhà khoa học đã phát hiện ra tiềm năng của mọi động vật đều có thời kỳ phát triển của mình, thời kỳ này là cố định. Một dạng tiềm năng nào đó nếu không có điều kiện phát triển đúng lúc thì sẽ bị thui chột. Ví dụ, thời kỳ phát triển năng lực “theo mẹ” của gà con khoảng 4 ngày sau khi nở, tiềm năng “nhận biết âm thanh của mẹ” trong khoảng 8 ngày tuổi. Nếu trong 8 ngày đầu đời mà tách khỏi mẹ thì gà con mất hẳn năng lực theo mẹ và nhận biết tiếng mẹ.
Tập tính của chó sói là giấu thức ăn thừa xuống đất để khi đói thì bới lên ăn. Nếu ta nhốt sói mẹ sắp đẻ trong chuồng nền cứng không đào bới được và cho sinh con trong đó. Một thời gian sau, thả hai mẹ con vào rừng, sói con mất hẳn năng lực “giấu thức ăn thừa” do giai đoạn đầu đời nó không có điều kiện “học” ở mẹ.
Con người là động vật bậc cao, tâm lý phát triển vượt rất xa động vật, song cũng có một số điểm tương tự. Một số năng lực của trẻ bị biến mất do không có điều kiện phát triển đúng lúc. Dễ dàng nhận thấy ở lĩnh vực âm nhạc, hội họa, ngoại ngữ,… Dạy cho một học sinh tiểu học “học ngoại ngữ” dễ hơn dạy cho một người trưởng thành mà chưa biết ngoại ngữ nào. Dạy cho trẻ mới tập tễnh biết đi biết “bỏ rác vào thùng rác” dễ hơn nhiều dạy một sinh viên đại học chưa có thói quen đó.
alt
Cuối thế kỷ 18, một mục sư người Anh tên là Carl Witer đã dày công nghiên cứu việc giáo dục từ sớm cho trẻ, ông cho rằng: “Việc giáo dục đối với trẻ con phải bắt đầu đồng thời với ánh bình minh trí lực của nó”. Ông tin rằng, đối với những đứa trẻ bình thường, chỉ cần giáo dục đúng cách sẽ có thể trở thành người phi thường. Vợ ông sinh con trai tháng 7 năm 1800, đặt tên là Carl Witer, trùng tên cha. Cậu bé lúc mới sinh có vẻ ngốc nghếch hơn bình thường, xóm giềng kháo nhau nó bị chứng đần độn. Người mẹ tỏ ra bi quan, không muốn bỏ công sức để giáo dục. Nhưng ông Witer cha vẫn không từ bỏ chủ trương giáo dục từ sớm của mình. Ông kiên nhẫn thực hiện từng chi tiết kế hoạch giáo dục thời kỳ đầu. Kết quả thật kinh ngạc. Witer con lên 9 tuổi đã có thể sử dụng 6 ngôn ngữ: Đức, Pháp, Italia, Anh, Hy Lạp, Latinh; thông hiểu động vật học, thực vật học, vật lý, hóa học; đặc biệt rất giỏi toán. Thi đậu Đại học Leipzig. Chưa đầy 14 tuổi được trao học vị Tiến sĩ Triết học, 16 tuổi được trao học vị Tiến sĩ Pháp học, 23 tuổi trở thành nhà Pháp học ưu tú. Witer con suốt đời dạy học, sống hạnh phúc và nổi tiếng, thọ 83 tuổi.
Ông Witer cha đã viết cuốn sách “Giáo dục Carl Witer” kể về quá trình giáo dục con từ lọt lòng đến 14 tuổi. Thời đó, người ta cho rằng thiên tài là do bẩm sinh chứ không phải do giáo dục. Vì vậy, cuốn sách không được mấy người quan tâm. Còn rất ít bản lưu hành đến ngày nay. Trong thư viện trường Đại học Harvard còn duy nhất một bản, được bảo quản hết sức nghiêm ngặt. Những ai may mắn đọc và làm theo phương pháp giáo dục từ sớm của Witer đều nuôi dưỡng thành công con cái trở thành những công dân cực kỳ ưu tú, và nhiều người đã viết thành sách để kể lại quá trình nuôi dạy con thành nhân tài.
Đầu thế kỷ 20, một học giả Nhật Bản tên Klimura Kyuichi đã nghiên cứu những thành tựu giáo dục từ sớm của Mỹ và phát triển thành học thuyết “Giáo dục thời kỳ đầu”. Năm 1916, ông xuất bản cuốn sách “Thiên tài và sự giáo dục sớm”, giới thiệu lý luận và phương pháp giáo dục của Witer cha và những người đã áp dụng phương pháp đó thành công. Học thuyết “Giáo dục thời kỳ đầu” đã ảnh hưởng sâu sắc đến tố chất người Nhật Bản, góp phần tạo nên sự phát triển thần kỳ của nước Nhật trong thế kỷ 20
Năm 1980, bà Lưu Vệ Hoa, một phóng viên sống tại Bắc Kinh (Trung Quốc), lúc đang mang thai được tặng cuốn sách “Thiên tài và sự giáo dục sớm”; sau đó, bà tìm đọc cuốn “Giáo dục trẻ bắt đầu từ 0 tuổi” của Ifuka - Nhà giáo dục học Nhật Bản. Ifuka là độc giả trung thành của cuốn sách “Thiên tài và sự giáo dục sớm”. Ông cho rằng, thời gian truyền đạt thông tin cho trẻ có thể bắt đầu từ 15 ngày tuổi. Điều này không phải thúc trẻ nói sớm mà nhằm giúp trẻ tích lũy từ ngữ được sẽ nhanh chóng bật ra, vượt xa những trẻ bình thường.
Năm 1981, bà Lưu Vệ Hoa sinh con, bà quyết tâm áp dụng phương pháp giáo dục từ sớm của Nhật Bản. Không may, ba tháng đầu đời, đứa con gái tên là Lưu Diệc Đình của bà ốm đau liên miên. Mặc dầu vậy, bà không từ bỏ kế hoạch giáo dục sớm. Vừa chữa bệnh cho con, bà vừa tiến hành huấn luyện 5 giác quan: tai, mắt, mồm, mũi, da; kích thích phát triển đại não, tập cho bé ăn ngủ điều độ, tránh cho dạ dày không được nghỉ. Bà biết rằng, nếu dạ dày làm việc quá nhiều thì chức năng của đại não sẽ giảm. Nhiều bà mẹ trẻ đã không nhận thức được điều này nên cứ ép con ăn, liên tục hết thứ này đến thứ khác. Khi sức khỏe con bình phục, bà tranh thủ từng giờ, từng phút truyền đạt những thông tin chuẩn mực, kích thích sự hưng phấn của trẻ. Bà ghi nhớ lời một nhà khoa học Nga Tsêcennov “Cội nguồn của mọi trí tuệ đều nằm ở sự ghi nhớ”. Bà luyện tập cho con sớm biết bò. Tiến sỹ Grand Dawmon - Viện trưởng Viện nghiên cứu phát triển tiềm năng trí lực con người của Mỹ nói: “Nếu như chỉ dùng 3 từ để nói rõ làm thế nào để phát triển năng lực trí lực của con bạn thì đó chính là cho cháu bò”. Bà tạo mọi điều kiện cho con học tập và phát triển đầy đủ những năng lực liên quan đến thời kỳ tuổi thơ khi tiếp xúc và quan sát môi trường xung quanh. Sự kiên nhẫn không biết mệt mỏi để theo đuổi phương pháp giáo dục từ sớm của Lưu Vệ Hoa trong 18 năm đã đem lại kết quả vang dội toàn Trung Quốc. Năm 1999, khi Lưu Diệc Đình 18 tuổi đã thi đậu 4 trường đại học danh tiếng của Mỹ, trong đó có Đại học Harvard, có trường hứa hẹn mức học bổng 30 ngàn đô la mỗi năm.
Lưu Vệ Hoa đã viết lại quá trình giáo dục con trong cuốn sách “Cô bé Harvard Lưu Diệc Đình”, Tác gia Xuất bản xã ấn hành năm 2001. Chỉ riêng năm đó, sách đã phát hành 1.100.000 bản; tái bản tới 32 lần. Cuốn sách được dịch sang tiếng Việt với tên sách là: “Em phải đến Harvard học kinh tế” (NXB VHTT, 2004). Nhiều bà mẹ trẻ đã tìm đọc cuốn sách này và coi là cẩm nang gối đầu giường.
Tôi được một người bạn tặng cuốn sách “Em phải đến Harvard học kinh tế”, càng đọc và suy ngẫm, càng thấy cuốn hút bởi tính thực tiễn của nó. Tôi chọn lọc và sắp xếp những tư liệu bổ ích viết trong sách giới thiệu với bạn đọc. Mong sao có nhiều người tìm đọc và áp dụng phương pháp giáo dục từ sớm để trẻ em Việt Nam có điều kiện phát triển hết tiềm năng, để có thật nhiều nhân tài cho đất nước.
Thái Huy Bích